Đã đến, đã thấy, đã mua
Thông điệp của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Bản Việt Nguyễn Thanh Phượng
Ngân hàng TMCP Bản Việt sẽ phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh doanh và các mụctiêu đã đặt ra cho năm 2012 cũng như các giai đoạn tiếp theo nhằm nâng vị thế của ngân hàng lên một tầm cao mới Đọc thêm...
Viet Capital Bank được tăng trưởng tín dụng 17%
Ngân hàng Bản Việt (Viet Capital Bank) vừa đưa ra kế hoạch hoạt động trong năm 2012 với dự kiến tăng trưởng tín dụng tới 17% Đọc thêm..
Con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Phượng:“Nên làm nhiều và nói ít thôi”
Nguyễn Thanh Phượng (ảnh) trẻ. Sức trẻ toát ra từ gương mặt, nụ cười, cách phục sức sành điệu Đọc thêm...
Cơ cấu nhân sự mới của ngân hàng Bản Việt
Ban lãnh đạo của ngân hàng Bản Việt có 3 thành viên liên quan đến công ty quản lý quỹ Bản Việt. Bà Nguyễn Thanh Phượng giữ chức chủ tịch HĐQT Đọc thêm...
Lý lịch Nguyễn Thanh Phượng – Chủ tịch HĐQT Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Bản Việt
Tóm tắt tiểu sử Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Quản lý Quỹ Bản Việt Nguyễn Thanh Phượng Xem thêm...
Hiển thị các bài đăng có nhãn đầu tư tài chính. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đầu tư tài chính. Hiển thị tất cả bài đăng
Khi người Nhật đến và mua
Trước trào lưu các nhà đầu tư Nhật Bản đến và tìm mua lại các công ty Việt Nam, có ý kiến ví von nền kinh tế ảm đạm trong nước đang được chấm phá sắc hồng của màu hoa anh đào.
Lễ công bố hợp đồng mua cổ phiếu KDC giữa Công ty EZaki Glico và Công ty Kinh Đô vừa diễn ra hồi tháng 1-2012.
Đã đến, đã thấy, đã mua
Đầu năm 2012 này, Công ty Ezaki Glico - hãng sản xuất bánh kẹo và thực phẩm của Nhật đã mua 14 triệu cổ phiếu của Công ty Kinh Đô (tương đương 10% vốn cổ phần) nhằm chuẩn bị đưa các sản phẩm Glico thâm nhập thị trường Việt Nam. Cũng trong tháng 1 năm nay, thương vụ Ngân hàng Mizuho mua 15% cổ phần của Vietcombank dự kiến sẽ hoàn tất việc giải ngân số tiền hơn 567 triệu đô la Mỹ.
Các thương vụ mua cổ phần của các nhà đầu tư xứ hoa anh đào len lỏi vào nhiều lĩnh vực, từ tài chính, bất động sản, đến truyền thông, hàng tiêu dùng... Một loạt các công ty trong nước đã và đang “pha màu hồng” qua những con số, nhất là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, như 25% cổ phần của Nutifood, 48% của Giấy Sài Gòn, 57% của Công ty cổ phần Thực phẩm quốc tế, 95% của Diana...
Giới thạo tin dự đoán danh sách sẽ còn tiếp tục dài thêm trong năm 2012, với những công ty sản xuất hàng tiêu dùng đang chật vật, những doanh nghiệp bất động sản đang ôm nợ, những công ty chứng khoán đang khốn khó, và không loại trừ cả những ngành hàng đang ăn nên làm ra như bán lẻ, logistics, chăm sóc sức khỏe... Nghĩa là các nhà đầu tư Nhật không chỉ nhìn vào những công ty khó khăn. Họ muốn thâm nhập cả những ngành hàng có tiềm năng khai thác ở thị trường gần 90 triệu dân này. Tình cảnh này có thể ví như câu nói của danh tướng Julius Caesar: “Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã chiến thắng”. Và dường như người Nhật đã đến và đang tràn đầy hy vọng chiến thắng!
Điều đáng chú ý là ở chỗ, khác với cách các quỹ đầu tư tài chính tìm mua cổ phần doanh nghiệp trước đây, các thương vụ diễn ra gần đây ít nhiều liên quan đến các công ty cùng ngành nghề, và giới đầu tư Nhật Bản có hiểu biết về xu hướng phát triển ngành, cũng như giàu năng lực chuyên môn. Vì thế, cách đặt vấn đề tìm hiểu để mua cổ phần doanh nghiệp của họ cho thấy họ không đơn thuần dừng lại ở việc muốn nắm cổ phần, mà còn quan tâm tới “độ sâu” trong hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, như vấn đề quản trị chuyên môn, kỹ thuật, quản lý rủi ro các hoạt động đầu tư của công ty.
Theo các chuyên gia, các nhà đầu tư Nhật đổ xô vào thị trường, mua lại các công ty Việt Nam do đây là thời điểm đầu tư thuận lợi: các doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn; lãi suất ở Việt Nam cao hơn ở Nhật Bản đến hàng chục lần; giá cổ phiếu của các doanh nghiệp đang ở mức quá rẻ...
Theo ông Nguyễn Công Ái, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH KPMG, các quyết định đầu tư của nhà đầu tư Nhật thường dựa vào các thông số về thị trường đông dân, tốc độ phát triển kinh tế ổn định và thu nhập đầu người ngày càng cao. Họ thường nghiên cứu rất kỹ trước khi đầu tư, và sẽ đầu tư vào các lĩnh vực thực sự có tiềm năng lâu dài, hướng tới tương lai, chứ không phải chỉ để giải quyết khó khăn hiện tại.
Khó khăn hiện tại của các doanh nghiệp Nhật Bản là thị trường chính quốc đã bão hòa, cùng với đồng yen đang lên giá. Các nhà đầu tư người Nhật đang chuyển sang tìm kiếm thị trường mới. Chính vì thế, Tama Home - tập đoàn chuyên về xây dựng nhà ở có doanh thu 1,8 tỉ đô la Mỹ/năm, đã tìm đến Việt Nam, thông qua Công ty Chứng khoán Kim Eng để thực hiện thương vụ mua 20% cổ phần của Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển nhà đất Cotec hồi cuối năm 2011. Thương vụ này là ví dụ tiêu biểu của cách thức đầu tư của giới đầu tư Nhật tại Việt Nam: thay vì tự đầu tư xây dựng nhà máy, tự thiết lập thị trường, họ chọn cách bắt tay với các đối tác trong nước để vừa giảm chi phí và thời gian, vừa thâm nhập thị trường hiệu quả.
Có cần phòng thủ?
Thị trường Việt Nam đang trở thành điểm đến ưa thích của người Nhật. Chính vì thế, một số thương vụ được trả với mức giá rất cao. “Khi nhà đầu tư chiến lược muốn mua số lượng lớn cổ phiếu của doanh nghiệp để được tham gia quản trị doanh nghiệp đó thì họ sẵn sàng trả giá cao nhất”, ông Lê Minh Tâm, Tổng giám đốc Kim Eng Việt Nam, cho biết.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra thận trọng trong các thương vụ mua bán. Họ đang chịu áp lực phải chọn lựa giữa cố thủ để tồn tại hay tìm vốn từ bên ngoài để phát triển. Cố thủ đồng nghĩa với tiếp tục chìm trong khó khăn. Còn đi tìm đối tác chiến lược, thì khi nhìn vào những vụ thâu tóm trên thị trường, họ cũng không khỏi lo sợ. Áp lực còn đè nặng hơn khi họ không đủ thông tin để đánh giá đối tác nước ngoài cả về kinh nghiệm lẫn mục đích đầu tư. Nhưng dù còn đó nỗi lo bị thâu tóm, bị thao túng, bị chệch hướng phát triển..., còn đó những hoang mang chưa có câu trả lời, thì việc chọn các đối tác Nhật Bản, trước mắt vẫn được xem là một giải pháp hợp lý.
Doanh nghiệp Việt Nam đang là đích nhắm của một số nhà đầu tư Nhật, và xu hướng này trong thời gian tới là không thể cưỡng lại được. Việc đi tìm đối tác chiến lược này, lắm lúc lại phát triển đến mức bán lại doanh nghiệp. Theo ông Tâm, có khi mục đích ban đầu của các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là đầu tư chiến lược nhằm có điều kiện hiểu biết và thâm nhập thị trường. Nhưng khi điều kiện cho phép, họ lại có thể tiến thêm một bước bằng cách mua thêm cổ phần để trở thành cổ đông đa số. Chính vì thế, khi đi tìm đối tác chiến lược, các doanh nghiệp cần xem xét và đánh giá cụ thể tỷ lệ và mức độ tham gia của nhà đầu tư mới cùng các vấn đề quản trị trong doanh nghiệp. Thời điểm này là lúc các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy về đối tác chiến lược. Và một khi có sự chuẩn bị tốt thì đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực kinh doanh quốc tế.
Theo TBKTSG
Nhiều kiểu lỗ của công ty niêm yết
Đến thời điểm này đa phần các công ty niêm yết đã nộp báo cáo tài chính năm 2011 cho 2 sở giao dịch chứng khoán. Trong năm nay, dù chưa có thống kê chính thức nhưng theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có đến 60% công ty niêm yết sụt giảm lợi nhuận.
Nhiều công ty niêm yết đã báo lỗ trong năm 2011. Ảnh: Thanh Thương
Năm 2011 được xem là một năm khó khăn của kinh tế vĩ mô lẫn thị trường chứng khoán, vì vậy các doanh nghiệp niêm yết đã phải chống chọi với các vấn đề từ chi phí đầu vào, đến lãi suất vay, trong khi việc hút vốn qua kênh chứng khoán cũng khó thực hiện. Vì vậy, số lượng doanh nghiệp công bố lỗ tính đến thời điểm này là 85 công ty, cao hơn năm ngoái 30 công ty.
Trong số các công ty lỗ trong quí 4, nhóm công ty bất động sản, dùng đến khoảng 80% vốn vay để thực hiện dự án là bị ảnh hưởng nặng nề nhất do lãi vay. Công ty Quốc Cường Gia Lai lũy kế cả năm 2011 lỗ 30,76 tỉ đồng, trong khi năm 2010 lãi 236,9 tỉ đồng. Chi phí tài chính, chủ yếu là chi phí lãi vay trong quí 4 là 23,47 tỉ đồng, tăng 160% so với mức 9,03 tỉ đồng cùng kỳ.
Trong giải trình về việc chậm thi công khu chung cư Quốc Cường 1, Quốc Cường Gia Lai cũng nhấn mạnh về vấn đề vay nợ. “Công ty phải đi vay rất khó khăn vì các ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản, khi vay được thì lãi suất rất cao lên đến 22-24%/năm”, đồng thời cũng do chi phí đầu vào tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động công ty".
Cùng cảnh ngộ với Quốc Cường Gia Lai, Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà (SJS) lỗ 61,93 tỉ đồng trong quí 4, cùng kỳ lãi 127,03 tỉ đồng. Lũy kế cả năm 2011, SJS lỗ 46,22 tỉ đồng, giảm mạnh so với mức lãi 456,12 tỉ đồng của năm 2010.
Thị trường chứng khoán đi xuống ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các công ty chứng khoán, dẫn đến việc các công ty này thua lỗ triền miên. Đến thời điểm này 12 công ty chứng khoán đang niêm yết đã công bố lỗ, chủ yếu do hoạt động môi giới và tự doanh như AVS, BSI, BVS.... Nhưng không chỉ có công ty chứng khoán, nhiều công ty khác có thực hiện hoạt động đầu tư tài chính cũng lỗ vì trích lập dự phòng cho các khoản đầu tư chứng khoán.
Trong số này, nổi bật là Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Sacom (SAM), lũy kế cả năm 2011, chi phí tài chính, trong đó chủ yếu là dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính ngắn, dài hạn của SAM là 205 tỉ đồng, dẫn đến việc lỗ 204,46 tỉ đồng trong năm 2011, trong khi năm 2010 công ty lãi 108,11 tỉ đồng.
Ông Đỗ Văn Trắc, Tổng giám đốc Sacom cho biết lẽ ra trong năm 2011, công ty bán xong dự án bất động sản trên đường Điện Biên Phủ, TPHCM thì sẽ ghi vào khoản thu nhập thêm 100 tỉ đồng. Tuy vậy, dự án này vừa ký hợp đồng bán trong tháng 1 vừa qua nên trong năm ngoái công ty buộc phải ghi nhận mức lỗ trên 200 tỉ đồng.
Ông Trắc cho biết trong năm nay sẽ thu hẹp hoạt động đầu tư tài chính, chỉ tập trung vào hoạt động chính là sản xuất cáp quang và dây điện từ. Đồng thời hoạt động trong lĩnh vực bất động sản cũng sẽ được chú trọng do công ty này còn quỹ đất tại Nhơn Trạch, Đồng Nai và Đà Lạt nhằm hạn chế lỗ.
Không chỉ lỗ vì chi phí lãi vay, hay trích lập dự phòng do đầu tư chứng khoán, nhiều công ty còn lỗ vì tỷ giá. Cụ thể như Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại (PPC) có khoản lỗ chênh lệch tỷ giá năm 2011 là 1.262 tỉ đồng, năm 2010 khoảng 1.000 tỉ đồng nữa. Trong khi đó, tổng số tiền trích lập dự phòng cho khoản vay có nguồn gốc ngoại tệ của công ty là 1.700 tỉ đồng, còn hơn 500 tỉ đồng công ty dự định chia đều cho 5 năm tiếp theo để trích lập.
Khoản vay của PPC là 30, 366 tỉ yên Nhật, tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố tại ngày 31-12-2011 là 266,76 đồng/yên, tăng 41,19 đồng so với 31-12-2010. Trong năm 2011 PPC lỗ 327 tỉ đồng.
Ông Lê Thế Sơn, Giám đốc Tài chính của PPC cho biết khoản vay bằng đồng yên nói trên ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của công ty, hiện tại công ty vẫn chưa có đủ tiền để trả nợ trước hạn nên sẽ tiếp tục trích lập dự phòng trong các năm tới. Hoạt động chính mang lại thu nhập của công ty là kinh doanh điện và một phần do lãi ngân hàng. Ông cũng cho rằng đồng yên khó có thể tiếp tục tăng cao trong năm 2012 nên có thể khoản trích lập dự phòng của công ty sẽ không quá lớn.
Trong số 85 công ty công bố lỗ trong quí 4, các nhóm ngành có số lượng công ty lỗ nhiều nhất là xây dựng, bất động sản, tài chính, vận tải biển, nhiệt điện, thủy điện.
Trong khi đó, nhóm ngành cao su tự nhiên có lãi lớn nhờ giá bán tăng. Cụ thể như Công ty Cao su Phước Hòa lã 825 tỉ đồng sau thuế, đạt đến 177% so với kế hoạch, và tăng nhiều so với con số 471 tỉ đồng của năm 2010. Công ty cao su Thống Nhất (TNC) cũng có 72,11 tỉ đồng đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 39,02% so với cùng kỳ. Hay Công ty Cao su Đồng Phú (DPR) có lợi nhuận sau thuế năm 2011 lên đến 846 tỉ đồng, tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ.
Đặc biệt, đa phần các ngân hàng đều công bố lãi trong cả năm, như STB, VSB, CTG, EIB… lợi nhuận chủ yếu của nhóm ngành ngân hàng đến từ thu nhập lãi vay.
Theo Công ty chứng khoán Bảo Việt, trong năm 2012 có thể chia các ngành vào 3 nhóm: thực phẩm - đồ uống, điện và dược sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng khá ổn định do nhu cầu sử dụng ít bị ảnh hưởng; dầu khí và nhựa là 2 ngành đứng ở mức trung bình do giá nguyên liệu đầu vào đang có xu hướng giảm; còn lại các ngành khác như bất động sản, xi măng, thép, cao su, thủy sản, khai khoáng và vận tải có thể sẽ phải cắt giảm sản xuất, đầu tư mới để tập trung giải quyết lượng hàng tồn kho cũng như giảm chi phí vốn để tồn tại.
Đầu tư thua lỗ, chủ tịch EVN mất chức
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa cho thôi chức chủ tịch hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đối với ông Đào Văn Hưng. Tại sao ông Hưng phải ra đi? Đó là câu hỏi đang được dư luận quan tâm.
Ông Đào Văn Hưng - Ảnh: K.Hưng
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam, một trong những nguyên nhân Thủ tướng cho ông Hưng thôi chức là do để xảy ra thua lỗ trong kết quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thông tin viễn thông điện lực (EVN Telecom). Thực tế, không chỉ EVN Telecom thua lỗ nghiêm trọng dẫn đến phải chuyển cho đơn vị khác tiếp nhận, nhiều khoản đầu tư khác vào các lĩnh vực không thuộc ngành điện cũng “thua to”.
Gánh nặng EVN Telecom
EVN Telecom được thành lập từ năm 1995 với chức năng quản lý vận hành, khai thác mạng thông tin viễn thông điện lực, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất, vận hành hệ thống điện và kinh doanh của EVN. Công ty này thực hiện kinh doanh các dịch vụ viễn thông trong nước và quốc tế; tư vấn, thiết kế lập các dự án công trình thông tin viễn thông... EVN Telecom đã được công ty mẹ đầu tư 100% vốn nhà nước với số tiền lên đến 2.442 tỉ đồng (tính đến cuối năm 2010). Suốt quá trình hoạt động, EVN Telecom được ưu ái bằng việc công ty mẹ phân bổ chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối với số tiền lên đến trên 1.000 tỉ đồng.
Ở thời điểm vừa “chân ướt chân ráo” tham gia thị trường viễn thông, không ít chuyên gia đã có ý kiến cho rằng việc EVN đầu tư như vậy là đầu tư ngoài ngành, nhưng lãnh đạo EVN giải thích không hẳn là đầu tư ngoài ngành, EVN có thể tận dụng hệ thống đường dây, cột điện có sẵn và đầu tư như vậy nhằm tận dụng tối đa hạ tầng của ngành để phát triển viễn thông. Hơn nữa, EVN sẽ đầu tư viễn thông trên cơ sở công nghệ 3G, cung cấp nhiều tiện ích, tin tưởng có thể cạnh tranh. Với tham vọng này, EVN Telecom tung ra nhiều chương trình khuyến mãi, hỗ trợ thiết bị đầu cuối cho khách hàng nhằm thu hút thuê bao. Tuy nhiên, EVN Telecom không có khả năng tung ra gói khuyến mãi cạnh tranh thật sự như các đối thủ Viettel, Vinaphone, MobiFone... Sau thời gian đầu phát triển thuê bao, khách hàng của EVN Telecom dần sụt giảm.
Trong cuộc đua viễn thông, EVN đã nhanh chóng đuối sức, kinh doanh không mang lại hiệu quả. Tổng kết năm 2010, EVN chính thức công nhận “thua” khi ông Đào Văn Hưng phát biểu khẳng định “đau xót lắm” vì viễn thông mỗi tháng lỗ cả chục tỉ đồng. Về trách nhiệm, ông Hưng không đề cập cá nhân nào, chỉ cho biết EVN có đề xuất về cổ phần hóa, bán bớt phần vốn của EVN Telecom nhưng gửi đề án mấy tháng vẫn chưa được duyệt.
Đầu tư tràn lan
Từ khi ông Hưng giữ chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị EVN, tập đoàn này đã có những quyết định đầu tư vào các ngành nóng là chứng khoán, ngân hàng, bất động sản, viễn thông với tổng vốn đầu tư hàng nghìn tỉ đồng trong thời điểm EVN không có đủ vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh điện.
Tính đến hết 31-12-2010, các khoản đầu tư tài chính dài hạn của EVN lên tới gần 50.000 tỉ đồng, trong đó chiếm gần 90% là vào những công ty con. Tuy nhiên, tổng lợi nhuận thu về chỉ khoảng 540 tỉ đồng, đạt tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư hơn... 1%. EVN cũng đã đầu tư trên 2.100 tỉ đồng vào bốn lĩnh vực nhạy cảm và ngoài ngành kinh doanh chính như bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng và tài chính, chiếm 3,27% vốn chủ sở hữu.
Theo báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của EVN, Kiểm toán Nhà nước đánh giá EVN không bảo toàn được vốn. Năm 2010, sản xuất kinh doanh của EVN lỗ 8.416 tỉ đồng, trong đó chưa tính hơn 28.500 tỉ đồng lỗ tiềm ẩn từ chênh lệch tỉ giá, chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối của viễn thông điện lực, giá nhiên liệu than, khí theo thị trường... Theo báo cáo kiểm toán, ước hoạt động kinh doanh năm 2011 của EVN lỗ gần 17.000 tỉ đồng, lỗ lũy kế đến 31-12-2011 là 40.400 tỉ đồng.
Tháng 10-2011, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản truyền đạt ý kiến của Thủ tướng về việc xử lý kết quả thanh tra tài chính tại EVN. Trong đó, Thủ tướng có yêu cầu Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện các phương án giá điện và đánh giá các khoản đầu tư ra ngoài ngành của EVN, đặc biệt là việc đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm như chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm và các khoản đầu tư vào EVN Telecom. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công thương chỉ đạo EVN kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan đến những vi phạm.
Theo Tuổi Trẻ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)