Sau khi đổi tên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank) chính thức công bố cơ cấu tổ chức nhân sự lãnh đạo mới.
Thông điệp của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Bản Việt Nguyễn Thanh Phượng
Ngân hàng TMCP Bản Việt sẽ phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh doanh và các mụctiêu đã đặt ra cho năm 2012 cũng như các giai đoạn tiếp theo nhằm nâng vị thế của ngân hàng lên một tầm cao mới Đọc thêm...
Viet Capital Bank được tăng trưởng tín dụng 17%
Ngân hàng Bản Việt (Viet Capital Bank) vừa đưa ra kế hoạch hoạt động trong năm 2012 với dự kiến tăng trưởng tín dụng tới 17% Đọc thêm..
Con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Phượng:“Nên làm nhiều và nói ít thôi”
Nguyễn Thanh Phượng (ảnh) trẻ. Sức trẻ toát ra từ gương mặt, nụ cười, cách phục sức sành điệu Đọc thêm...
Cơ cấu nhân sự mới của ngân hàng Bản Việt
Ban lãnh đạo của ngân hàng Bản Việt có 3 thành viên liên quan đến công ty quản lý quỹ Bản Việt. Bà Nguyễn Thanh Phượng giữ chức chủ tịch HĐQT Đọc thêm...
Lý lịch Nguyễn Thanh Phượng – Chủ tịch HĐQT Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Bản Việt
Tóm tắt tiểu sử Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Quản lý Quỹ Bản Việt Nguyễn Thanh Phượng Xem thêm...
Bà Nguyễn Thanh Phượng đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Hội đồng Quản trị Viet Capital Bank
Theo thông tin vừa công bố, bà Nguyễn Thanh Phượng là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Viet Capital Bank, thay người tiền nhiệm là ông Đỗ Duy Hưng (hiện đảm nhiệm vị trí Tổng giám đốc).
Ngày 9/1/2012, Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank) chính thức thay đổi hệ thống nhận diện thương hiệu với tên gọi mới là Ngân hàng Bản Việt (Viet Capital Bank).
Bà Phượng hiện là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Công ty Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt, Công ty Chứng khoán Bản Việt và Công ty bất động sản Bản Việt.
Bà Phượng sinh năm 1980, tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội và thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Đại học Geneva. Bà từng là Phó giám đốc tài chính của Holcim Vietnam, tập đoàn đa quốc gia có trụ sở chính tại Thụy Sỹ; từng là Giám đốc đầu tư của Quỹ đầu tư Thụy Sỹ VietnamHolding, niêm yết tại thị trường chứng khoán Luân Đôn, AIM.
Trong cơ cấu mới, Hội đồng Quản trị của Viet Capital Bank có 8 thành viên; Ban kiểm soát có 3 thành viên; Ban điều hành có 7 thành viên.
Bà Nguyễn Thanh Phượng.
Trước đó, ngày 9/1/2012, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định (GiaDinhBank) chính thức thay đổi hệ thống nhận diện thương hiệu với tên gọi mới là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank). Hoạt động sáp nhập này là một trong những sự kiện đáng chú ý nhất của thị trường tài chính Việt Nam năm vừa qua.
Trong năm 2011, kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 2.000 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng (đảm bảo yêu cầu vốn pháp định) của ngân hàng này cũng là một sự kiện thu hút sự chú ý của thị trường.
CNTT thu hút nhà đầu tư nước ngoài
Nhiều công ty nước ngoài, nhà đầu tư và các quỹ đầu tư quan tâm việc đầu tư vào các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), phát triển phầm mềm của Việt Nam bởi thị trường còn lớn.
Ông David Đỗ (phải), Giám đốc điều hành Quỹ VIG (Vietnam Investments Group) và ông Ngô Đức Chí, CEO, Global Cybersoft Inc, đang trao đổi tại Super Investors Day.
Đây là nhân định của một số diễn giả là doanh nhân, công ty tư vấn đầu tư, nhà quản lý đầu tư ở Ngày hội các nhà đầu tư 2012 (Super Investors Day) diễn ra tại TPHCM ngày 16-2.
Theo ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung, hiện có nhiều công ty công nghệ thông tin và phát triển phần mềm nước ngoài có ý định mở rộng quy mô hoặc tìm kiếm đối tác đầu tư là các doanh nghiệp phần mềm tại Việt Nam.
Trao đổi với báo chí bên lề hội thảo, ông Dũng cho biết một số nhà đầu tư đã đi theo con đường mua bán sáp nhập (M&A). Phần lớn các công ty công nghệ thông tin nước ngoài muốn vào Việt Nam hiện nay đã chọn giải pháp mua lại những công ty trong nước đang hoạt động. Do đó, ông Dũng cho rằng cơ hội M&A cho lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam là có thật, và phần lớn nhà đầu tư chỉ quan tâm đến những công ty nhỏ.
Ông Dũng cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua các công ty ở Việt Nam chỉ chú ý đến thị trường trong nước và nguồn nhân lực có sẵn để triển khai nhanh. Họ sẵng sàng đổi thương hiệu công ty đã mua và đưa công nghệ vào để triển khai hoạt động nhanh hơn thay vì tự đầu tư.
Với hướng đi này, theo ông Dũng ghi nhận, quá trình thương thảo đi đến quyết định mua bán và sáp nhập của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này hiện nay nhanh hơn trước rất nhiều. Ông cho biết, trước đây các nhà đầu tư Nhật luôn rất thận trọng, khảo sát đến 2-3 năm mới tiến hành đầu tư. Hiện nay thì khác, chỉ trong khoảng sáu tháng là có thể làm xong. Hiện có vài công ty Nhật đang có ý định này, ông Dũng nói.
Dưới góc nhìn của nhà tư vấn đầu tư, ông Nguyễn Tất Thắng, Kinh tế trưởng Công ty HSC, cũng cho rằng lĩnh vực công nghệ thông tin đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là đối với các công ty Nhật. Theo ông Thắng, công nghệ thông tin Việt Nam phát triển chưa mạnh, trong đó đáng chú ý là việc phát triển cơ sở dữ liệu, hệ thống quản lý của một số ngành như ngân hàng, phân phối, y tế… Do đó một số nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam, qua kênh mua bán sáp nhập, để khai thác thị trường này.
Còn ông David Đỗ (Dũng), Giám đốc điều hành Quỹ VIG (Vietnam Investments Group), cũng nhìn nhận cơ hội đầu tư lĩnh vực công nghệ thông tin tại Việt Nam khá lớn. Theo ông, các nước phát triển như châu Âu hoặc Mỹ, tỷ lệ ngành này chiếm khoảng 7% GDP, trong khi ở Việt Nam hiện nay thì chưa đạt đến 2%.
Ông cho biết dịch vụ e-commerce (thương mại điện tử) cũng được xem là lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các quỹ đầu tư, vì hiện nay internet ở Việt Nam đang tăng trưởng nhanh. Lượng người dân sử dụng internet ngày càng nhiều là cơ hội để phát triển dịch vụ này.
Tuy nhiên vấn đề M&A lĩnh vực công nghệ thông tin, theo một số nhà đầu tư, thì còn khó tính toán về giá trị bởi tài sản của doanh nghiệp trong lĩnh vực này phần lớn là nguồn nhân lực.
SRF: Quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt đã mua 18.820 CP
SRF: Quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt đã mua 18.820 CP
Quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt cổ đông lớn của Công ty Cổ phần Kỹ nghệ Lạnh (SRF) đã mua 18.820 CP và bán bất thành 231.300 CP.
Tên của tổ chức: Quỹ đầu tư Chứng khoán Bản Việt
Mã chứng khoán: SRF
Chức vụ hiện nay tại tổ chức niêm yết: Thành viên HĐQT
Số lượng, tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ trước khi giao dịch: 1.609.560 CP, tỷ lệ 22,01%
Người có liên quan đồng sở hữu: (trong hợp đồng sở hữu với người có liên quan)
+ Cung Trần Việt:
+ Phạm Anh Tú:
Chức vụ hiện nay tại tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch (nếu có): Thành viên HĐQT
Mối quan hệ với cá nhân/tổ chức đầu tư:
+ Cung Trần Việt: giám đốc nghiên cứu
+ Phạm Anh Tú: giám đốc tài chính
Số lượng đăng ký mua: 211.300 CP; Bán: 211.300 CP
Số lượng CP đã mua: 18.280 CP; Bán: 0 CP
Số lượng, tỷ lệ cổ phiếu Quỹ đầu tư Chứng khoán Bản Việt nắm giữ sau khi thực hiện giao dịch1.627.840 CP, tỷ lệ 22,26%
Lý do thay đổi sở hữu: thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư
Phương thức giao dịch: Khớp lệnh
Thời gian dự kiến thực hiện giao dịch: từ ngày 8/12/2011 đến ngày 8/2/2012
Lý do không thực hiện hết giao dịch: Diễn biến giá không phù hợp
Theo stox.vn
Khi người Nhật đến và mua
Trước trào lưu các nhà đầu tư Nhật Bản đến và tìm mua lại các công ty Việt Nam, có ý kiến ví von nền kinh tế ảm đạm trong nước đang được chấm phá sắc hồng của màu hoa anh đào.
Lễ công bố hợp đồng mua cổ phiếu KDC giữa Công ty EZaki Glico và Công ty Kinh Đô vừa diễn ra hồi tháng 1-2012.
Đã đến, đã thấy, đã mua
Đầu năm 2012 này, Công ty Ezaki Glico - hãng sản xuất bánh kẹo và thực phẩm của Nhật đã mua 14 triệu cổ phiếu của Công ty Kinh Đô (tương đương 10% vốn cổ phần) nhằm chuẩn bị đưa các sản phẩm Glico thâm nhập thị trường Việt Nam. Cũng trong tháng 1 năm nay, thương vụ Ngân hàng Mizuho mua 15% cổ phần của Vietcombank dự kiến sẽ hoàn tất việc giải ngân số tiền hơn 567 triệu đô la Mỹ.
Các thương vụ mua cổ phần của các nhà đầu tư xứ hoa anh đào len lỏi vào nhiều lĩnh vực, từ tài chính, bất động sản, đến truyền thông, hàng tiêu dùng... Một loạt các công ty trong nước đã và đang “pha màu hồng” qua những con số, nhất là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, như 25% cổ phần của Nutifood, 48% của Giấy Sài Gòn, 57% của Công ty cổ phần Thực phẩm quốc tế, 95% của Diana...
Giới thạo tin dự đoán danh sách sẽ còn tiếp tục dài thêm trong năm 2012, với những công ty sản xuất hàng tiêu dùng đang chật vật, những doanh nghiệp bất động sản đang ôm nợ, những công ty chứng khoán đang khốn khó, và không loại trừ cả những ngành hàng đang ăn nên làm ra như bán lẻ, logistics, chăm sóc sức khỏe... Nghĩa là các nhà đầu tư Nhật không chỉ nhìn vào những công ty khó khăn. Họ muốn thâm nhập cả những ngành hàng có tiềm năng khai thác ở thị trường gần 90 triệu dân này. Tình cảnh này có thể ví như câu nói của danh tướng Julius Caesar: “Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã chiến thắng”. Và dường như người Nhật đã đến và đang tràn đầy hy vọng chiến thắng!
Điều đáng chú ý là ở chỗ, khác với cách các quỹ đầu tư tài chính tìm mua cổ phần doanh nghiệp trước đây, các thương vụ diễn ra gần đây ít nhiều liên quan đến các công ty cùng ngành nghề, và giới đầu tư Nhật Bản có hiểu biết về xu hướng phát triển ngành, cũng như giàu năng lực chuyên môn. Vì thế, cách đặt vấn đề tìm hiểu để mua cổ phần doanh nghiệp của họ cho thấy họ không đơn thuần dừng lại ở việc muốn nắm cổ phần, mà còn quan tâm tới “độ sâu” trong hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam, như vấn đề quản trị chuyên môn, kỹ thuật, quản lý rủi ro các hoạt động đầu tư của công ty.
Theo các chuyên gia, các nhà đầu tư Nhật đổ xô vào thị trường, mua lại các công ty Việt Nam do đây là thời điểm đầu tư thuận lợi: các doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn; lãi suất ở Việt Nam cao hơn ở Nhật Bản đến hàng chục lần; giá cổ phiếu của các doanh nghiệp đang ở mức quá rẻ...
Theo ông Nguyễn Công Ái, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH KPMG, các quyết định đầu tư của nhà đầu tư Nhật thường dựa vào các thông số về thị trường đông dân, tốc độ phát triển kinh tế ổn định và thu nhập đầu người ngày càng cao. Họ thường nghiên cứu rất kỹ trước khi đầu tư, và sẽ đầu tư vào các lĩnh vực thực sự có tiềm năng lâu dài, hướng tới tương lai, chứ không phải chỉ để giải quyết khó khăn hiện tại.
Khó khăn hiện tại của các doanh nghiệp Nhật Bản là thị trường chính quốc đã bão hòa, cùng với đồng yen đang lên giá. Các nhà đầu tư người Nhật đang chuyển sang tìm kiếm thị trường mới. Chính vì thế, Tama Home - tập đoàn chuyên về xây dựng nhà ở có doanh thu 1,8 tỉ đô la Mỹ/năm, đã tìm đến Việt Nam, thông qua Công ty Chứng khoán Kim Eng để thực hiện thương vụ mua 20% cổ phần của Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển nhà đất Cotec hồi cuối năm 2011. Thương vụ này là ví dụ tiêu biểu của cách thức đầu tư của giới đầu tư Nhật tại Việt Nam: thay vì tự đầu tư xây dựng nhà máy, tự thiết lập thị trường, họ chọn cách bắt tay với các đối tác trong nước để vừa giảm chi phí và thời gian, vừa thâm nhập thị trường hiệu quả.
Có cần phòng thủ?
Thị trường Việt Nam đang trở thành điểm đến ưa thích của người Nhật. Chính vì thế, một số thương vụ được trả với mức giá rất cao. “Khi nhà đầu tư chiến lược muốn mua số lượng lớn cổ phiếu của doanh nghiệp để được tham gia quản trị doanh nghiệp đó thì họ sẵn sàng trả giá cao nhất”, ông Lê Minh Tâm, Tổng giám đốc Kim Eng Việt Nam, cho biết.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra thận trọng trong các thương vụ mua bán. Họ đang chịu áp lực phải chọn lựa giữa cố thủ để tồn tại hay tìm vốn từ bên ngoài để phát triển. Cố thủ đồng nghĩa với tiếp tục chìm trong khó khăn. Còn đi tìm đối tác chiến lược, thì khi nhìn vào những vụ thâu tóm trên thị trường, họ cũng không khỏi lo sợ. Áp lực còn đè nặng hơn khi họ không đủ thông tin để đánh giá đối tác nước ngoài cả về kinh nghiệm lẫn mục đích đầu tư. Nhưng dù còn đó nỗi lo bị thâu tóm, bị thao túng, bị chệch hướng phát triển..., còn đó những hoang mang chưa có câu trả lời, thì việc chọn các đối tác Nhật Bản, trước mắt vẫn được xem là một giải pháp hợp lý.
Doanh nghiệp Việt Nam đang là đích nhắm của một số nhà đầu tư Nhật, và xu hướng này trong thời gian tới là không thể cưỡng lại được. Việc đi tìm đối tác chiến lược này, lắm lúc lại phát triển đến mức bán lại doanh nghiệp. Theo ông Tâm, có khi mục đích ban đầu của các nhà đầu tư nước ngoài chỉ là đầu tư chiến lược nhằm có điều kiện hiểu biết và thâm nhập thị trường. Nhưng khi điều kiện cho phép, họ lại có thể tiến thêm một bước bằng cách mua thêm cổ phần để trở thành cổ đông đa số. Chính vì thế, khi đi tìm đối tác chiến lược, các doanh nghiệp cần xem xét và đánh giá cụ thể tỷ lệ và mức độ tham gia của nhà đầu tư mới cùng các vấn đề quản trị trong doanh nghiệp. Thời điểm này là lúc các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy về đối tác chiến lược. Và một khi có sự chuẩn bị tốt thì đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực kinh doanh quốc tế.
Theo TBKTSG
Dòng tiền đang đổ về các thị trường mới nổi
Tính từ đầu năm 2012 đến nay, các quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi đã hút được 11,3 tỷ USD.
Thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động
Tính từ đầu năm 2012 đến nay, tiền lại trở lại với thị trường nhóm nước mới nổi, các quỹ đầu tư vào tài sản có khởi đầu năm tốt nhất tính từ năm 2006 bởi nhà đầu tư lo sợ về các thị trường nhóm nước phát triển.
(Ảnh minh họa)
Quỹ đầu tư vào chứng khoán trên thị trường mới nổi, quỹ không được ưa chuộng trong phần lớn năm 2011, đã thu hút được 3,5 tỷ USD trong tuần kết thúc ngày 01/02/2012, mức cao nhất trong 1 năm. Tính từ đầu năm 2012 đến nay, các quỹ này đã hút được 11,3 tỷ USD, theo số liệu của EPFR Global, một công ty chuyên cung cấp dữ liệu.
Trong tuần trước, quỹ trái phiếu trên thị trường mới nổi chứng kiến 1,2 tỷ USD bị rút ra, mức cao nhất từ tháng 3/2011. Do dòng tiền vào thị trường mới nổi ở mức cao, đồng nội tệ của các nước mới nổi liên tục tăng giá từ đầu năm đến nay.
Chuyên gia tại ngân hàng Société Générale hàng đầu của Pháp nhận xét: “Cho đến nay, nhà đầu tư khá quan tâm đến thị trường nhóm nước mới nổi. Trên phương diện lớn hơn, nó phản ánh tâm lý chán nản với khủng hoảng nợ công tại châu Âu và rằng nhà đầu tư đã sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn.”
Chỉ số FTSE của TTCK nhóm nước mới nổi đã tăng hơn 15% từ đầu năm 2012 đến nay và lên mức cao nhất tính từ đầu tháng 8/2011. Chỉ số FTSE toàn cầu trong khi đó chỉ tăng trưởng được 8,4% từ đầu năm 2012 đến nay.
Chi phí lãi vay của các nước mới nổi cũng giảm mạnh nhờ sự quan tâm của nhà đầu tư.
Dù vậy các chuyên gia đặt câu hỏi liệu dòng tiền có vào các thị trường này một cách bền vững.
Chuyên gia thuộc Barclays nhận xét: “Khi chúng ta bước vào năm 2012 với nhiều biến động tích cực trên thị trường mới nổi, việc các thị trường mới nổi tăng trưởng quá nhanh, quá nóng không khỏi khiến người ta hoài nghi rằng đã tăng trưởng liệu có thể được duy trì.”
Nền kinh tế các nước mới nổi cho đến nay vẫn chịu rủi ro từ khả năng khủng hoảng nợ công châu Âu căng thẳng hơn, tăng trưởng kinh tế Mỹ và Trung Quốc, đi xuống./.
Theo AFP / VOV
Các quỹ đầu tư Nhật Bản tăng đầu tư vào Việt Nam
Phóng viên TTXVN tại Nhật Bản dẫn nguồn tin báo Nikkei - nhật báo chuyên về kinh tế, tài chính hàng đầu của Nhật Bản - cho biết các quỹ đầu tư của nước này đang ngày càng quan tâm tới các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tăng trưởng mới như dược phẩm và công nghệ thông tin.
Các quỹ đầu tư Nhật Bản tăng đầu tư vào Việt Nam
Mới đây, thông qua Quỹ đầu tư DI Asian Industrial Fund LP, Quỹ đầu tư mạo hiểm Dream Incubator Inc và Tập đoàn Orix đã mua 31% cổ phần của Công ty Thiết bị Y tế Nhật-Việt, một doanh nghiệp chuyên bán buôn thiết bị y tế của Việt Nam.
Một số nguồn tin cho rằng khoản đầu tư đầu tiên của các đơn vị trên vào công ty thiết bị y tế này từ khoảng 600-800 triệu yen (tương đương 77-102 triệu USD).
Theo dự kiến, Quỹ DI Asian Industrial Fund LP sẽ chỉ định một giám đốc tham gia vào ban điều hành của Công ty Thiết bị Y tế Nhật Việt và giúp tăng cường quan hệ đối tác giữa công ty này với các doanh nghiệp chế tạo thiết bị y tế của Nhật Bản.
Trong khi đó, CyberAgent Ventures Inc, một quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc Tập đoàn CyberAgent Inc, đã mua cổ phần của NCT Corp - công ty đang điều hành trang web chia sẻ âm nhạc lớn nhất của Việt Nam. Mục tiêu của khoản đầu tư này là mở rộng nội dung kinh doanh của NCT Corp thông qua kinh nghiệm và công nghệ về mạng của CyberAgent Inc.
Bằng cách thu hút thêm vốn đầu tư, Quỹ đầu tư CyberAgent Ventures Inc. đang cố gắng tăng vốn đầu tư lên 1,6 tỷ yen (khoảng 20 triệu USD) và đẩy mạnh đầu tư vào các công ty đang tăng trưởng ở Đông Nam Á, nhất là ở Việt Nam và Indonesia./.
Theo TTXVN
Nhiều kiểu lỗ của công ty niêm yết
Đến thời điểm này đa phần các công ty niêm yết đã nộp báo cáo tài chính năm 2011 cho 2 sở giao dịch chứng khoán. Trong năm nay, dù chưa có thống kê chính thức nhưng theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có đến 60% công ty niêm yết sụt giảm lợi nhuận.
Nhiều công ty niêm yết đã báo lỗ trong năm 2011. Ảnh: Thanh Thương
Năm 2011 được xem là một năm khó khăn của kinh tế vĩ mô lẫn thị trường chứng khoán, vì vậy các doanh nghiệp niêm yết đã phải chống chọi với các vấn đề từ chi phí đầu vào, đến lãi suất vay, trong khi việc hút vốn qua kênh chứng khoán cũng khó thực hiện. Vì vậy, số lượng doanh nghiệp công bố lỗ tính đến thời điểm này là 85 công ty, cao hơn năm ngoái 30 công ty.
Trong số các công ty lỗ trong quí 4, nhóm công ty bất động sản, dùng đến khoảng 80% vốn vay để thực hiện dự án là bị ảnh hưởng nặng nề nhất do lãi vay. Công ty Quốc Cường Gia Lai lũy kế cả năm 2011 lỗ 30,76 tỉ đồng, trong khi năm 2010 lãi 236,9 tỉ đồng. Chi phí tài chính, chủ yếu là chi phí lãi vay trong quí 4 là 23,47 tỉ đồng, tăng 160% so với mức 9,03 tỉ đồng cùng kỳ.
Trong giải trình về việc chậm thi công khu chung cư Quốc Cường 1, Quốc Cường Gia Lai cũng nhấn mạnh về vấn đề vay nợ. “Công ty phải đi vay rất khó khăn vì các ngân hàng hạn chế cho vay bất động sản, khi vay được thì lãi suất rất cao lên đến 22-24%/năm”, đồng thời cũng do chi phí đầu vào tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động công ty".
Cùng cảnh ngộ với Quốc Cường Gia Lai, Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà (SJS) lỗ 61,93 tỉ đồng trong quí 4, cùng kỳ lãi 127,03 tỉ đồng. Lũy kế cả năm 2011, SJS lỗ 46,22 tỉ đồng, giảm mạnh so với mức lãi 456,12 tỉ đồng của năm 2010.
Thị trường chứng khoán đi xuống ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các công ty chứng khoán, dẫn đến việc các công ty này thua lỗ triền miên. Đến thời điểm này 12 công ty chứng khoán đang niêm yết đã công bố lỗ, chủ yếu do hoạt động môi giới và tự doanh như AVS, BSI, BVS.... Nhưng không chỉ có công ty chứng khoán, nhiều công ty khác có thực hiện hoạt động đầu tư tài chính cũng lỗ vì trích lập dự phòng cho các khoản đầu tư chứng khoán.
Trong số này, nổi bật là Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Sacom (SAM), lũy kế cả năm 2011, chi phí tài chính, trong đó chủ yếu là dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính ngắn, dài hạn của SAM là 205 tỉ đồng, dẫn đến việc lỗ 204,46 tỉ đồng trong năm 2011, trong khi năm 2010 công ty lãi 108,11 tỉ đồng.
Ông Đỗ Văn Trắc, Tổng giám đốc Sacom cho biết lẽ ra trong năm 2011, công ty bán xong dự án bất động sản trên đường Điện Biên Phủ, TPHCM thì sẽ ghi vào khoản thu nhập thêm 100 tỉ đồng. Tuy vậy, dự án này vừa ký hợp đồng bán trong tháng 1 vừa qua nên trong năm ngoái công ty buộc phải ghi nhận mức lỗ trên 200 tỉ đồng.
Ông Trắc cho biết trong năm nay sẽ thu hẹp hoạt động đầu tư tài chính, chỉ tập trung vào hoạt động chính là sản xuất cáp quang và dây điện từ. Đồng thời hoạt động trong lĩnh vực bất động sản cũng sẽ được chú trọng do công ty này còn quỹ đất tại Nhơn Trạch, Đồng Nai và Đà Lạt nhằm hạn chế lỗ.
Không chỉ lỗ vì chi phí lãi vay, hay trích lập dự phòng do đầu tư chứng khoán, nhiều công ty còn lỗ vì tỷ giá. Cụ thể như Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại (PPC) có khoản lỗ chênh lệch tỷ giá năm 2011 là 1.262 tỉ đồng, năm 2010 khoảng 1.000 tỉ đồng nữa. Trong khi đó, tổng số tiền trích lập dự phòng cho khoản vay có nguồn gốc ngoại tệ của công ty là 1.700 tỉ đồng, còn hơn 500 tỉ đồng công ty dự định chia đều cho 5 năm tiếp theo để trích lập.
Khoản vay của PPC là 30, 366 tỉ yên Nhật, tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố tại ngày 31-12-2011 là 266,76 đồng/yên, tăng 41,19 đồng so với 31-12-2010. Trong năm 2011 PPC lỗ 327 tỉ đồng.
Ông Lê Thế Sơn, Giám đốc Tài chính của PPC cho biết khoản vay bằng đồng yên nói trên ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của công ty, hiện tại công ty vẫn chưa có đủ tiền để trả nợ trước hạn nên sẽ tiếp tục trích lập dự phòng trong các năm tới. Hoạt động chính mang lại thu nhập của công ty là kinh doanh điện và một phần do lãi ngân hàng. Ông cũng cho rằng đồng yên khó có thể tiếp tục tăng cao trong năm 2012 nên có thể khoản trích lập dự phòng của công ty sẽ không quá lớn.
Trong số 85 công ty công bố lỗ trong quí 4, các nhóm ngành có số lượng công ty lỗ nhiều nhất là xây dựng, bất động sản, tài chính, vận tải biển, nhiệt điện, thủy điện.
Trong khi đó, nhóm ngành cao su tự nhiên có lãi lớn nhờ giá bán tăng. Cụ thể như Công ty Cao su Phước Hòa lã 825 tỉ đồng sau thuế, đạt đến 177% so với kế hoạch, và tăng nhiều so với con số 471 tỉ đồng của năm 2010. Công ty cao su Thống Nhất (TNC) cũng có 72,11 tỉ đồng đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 39,02% so với cùng kỳ. Hay Công ty Cao su Đồng Phú (DPR) có lợi nhuận sau thuế năm 2011 lên đến 846 tỉ đồng, tăng hơn gấp đôi so với cùng kỳ.
Đặc biệt, đa phần các ngân hàng đều công bố lãi trong cả năm, như STB, VSB, CTG, EIB… lợi nhuận chủ yếu của nhóm ngành ngân hàng đến từ thu nhập lãi vay.
Theo Công ty chứng khoán Bảo Việt, trong năm 2012 có thể chia các ngành vào 3 nhóm: thực phẩm - đồ uống, điện và dược sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng khá ổn định do nhu cầu sử dụng ít bị ảnh hưởng; dầu khí và nhựa là 2 ngành đứng ở mức trung bình do giá nguyên liệu đầu vào đang có xu hướng giảm; còn lại các ngành khác như bất động sản, xi măng, thép, cao su, thủy sản, khai khoáng và vận tải có thể sẽ phải cắt giảm sản xuất, đầu tư mới để tập trung giải quyết lượng hàng tồn kho cũng như giảm chi phí vốn để tồn tại.
Đầu tư thua lỗ, chủ tịch EVN mất chức
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa cho thôi chức chủ tịch hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đối với ông Đào Văn Hưng. Tại sao ông Hưng phải ra đi? Đó là câu hỏi đang được dư luận quan tâm.
Ông Đào Văn Hưng - Ảnh: K.Hưng
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam, một trong những nguyên nhân Thủ tướng cho ông Hưng thôi chức là do để xảy ra thua lỗ trong kết quả sản xuất kinh doanh tại Công ty Thông tin viễn thông điện lực (EVN Telecom). Thực tế, không chỉ EVN Telecom thua lỗ nghiêm trọng dẫn đến phải chuyển cho đơn vị khác tiếp nhận, nhiều khoản đầu tư khác vào các lĩnh vực không thuộc ngành điện cũng “thua to”.
Gánh nặng EVN Telecom
EVN Telecom được thành lập từ năm 1995 với chức năng quản lý vận hành, khai thác mạng thông tin viễn thông điện lực, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất, vận hành hệ thống điện và kinh doanh của EVN. Công ty này thực hiện kinh doanh các dịch vụ viễn thông trong nước và quốc tế; tư vấn, thiết kế lập các dự án công trình thông tin viễn thông... EVN Telecom đã được công ty mẹ đầu tư 100% vốn nhà nước với số tiền lên đến 2.442 tỉ đồng (tính đến cuối năm 2010). Suốt quá trình hoạt động, EVN Telecom được ưu ái bằng việc công ty mẹ phân bổ chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối với số tiền lên đến trên 1.000 tỉ đồng.
Ở thời điểm vừa “chân ướt chân ráo” tham gia thị trường viễn thông, không ít chuyên gia đã có ý kiến cho rằng việc EVN đầu tư như vậy là đầu tư ngoài ngành, nhưng lãnh đạo EVN giải thích không hẳn là đầu tư ngoài ngành, EVN có thể tận dụng hệ thống đường dây, cột điện có sẵn và đầu tư như vậy nhằm tận dụng tối đa hạ tầng của ngành để phát triển viễn thông. Hơn nữa, EVN sẽ đầu tư viễn thông trên cơ sở công nghệ 3G, cung cấp nhiều tiện ích, tin tưởng có thể cạnh tranh. Với tham vọng này, EVN Telecom tung ra nhiều chương trình khuyến mãi, hỗ trợ thiết bị đầu cuối cho khách hàng nhằm thu hút thuê bao. Tuy nhiên, EVN Telecom không có khả năng tung ra gói khuyến mãi cạnh tranh thật sự như các đối thủ Viettel, Vinaphone, MobiFone... Sau thời gian đầu phát triển thuê bao, khách hàng của EVN Telecom dần sụt giảm.
Trong cuộc đua viễn thông, EVN đã nhanh chóng đuối sức, kinh doanh không mang lại hiệu quả. Tổng kết năm 2010, EVN chính thức công nhận “thua” khi ông Đào Văn Hưng phát biểu khẳng định “đau xót lắm” vì viễn thông mỗi tháng lỗ cả chục tỉ đồng. Về trách nhiệm, ông Hưng không đề cập cá nhân nào, chỉ cho biết EVN có đề xuất về cổ phần hóa, bán bớt phần vốn của EVN Telecom nhưng gửi đề án mấy tháng vẫn chưa được duyệt.
Đầu tư tràn lan
Từ khi ông Hưng giữ chức vụ chủ tịch hội đồng quản trị EVN, tập đoàn này đã có những quyết định đầu tư vào các ngành nóng là chứng khoán, ngân hàng, bất động sản, viễn thông với tổng vốn đầu tư hàng nghìn tỉ đồng trong thời điểm EVN không có đủ vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh điện.
Tính đến hết 31-12-2010, các khoản đầu tư tài chính dài hạn của EVN lên tới gần 50.000 tỉ đồng, trong đó chiếm gần 90% là vào những công ty con. Tuy nhiên, tổng lợi nhuận thu về chỉ khoảng 540 tỉ đồng, đạt tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư hơn... 1%. EVN cũng đã đầu tư trên 2.100 tỉ đồng vào bốn lĩnh vực nhạy cảm và ngoài ngành kinh doanh chính như bất động sản, bảo hiểm, ngân hàng và tài chính, chiếm 3,27% vốn chủ sở hữu.
Theo báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của EVN, Kiểm toán Nhà nước đánh giá EVN không bảo toàn được vốn. Năm 2010, sản xuất kinh doanh của EVN lỗ 8.416 tỉ đồng, trong đó chưa tính hơn 28.500 tỉ đồng lỗ tiềm ẩn từ chênh lệch tỉ giá, chi phí hỗ trợ thiết bị đầu cuối của viễn thông điện lực, giá nhiên liệu than, khí theo thị trường... Theo báo cáo kiểm toán, ước hoạt động kinh doanh năm 2011 của EVN lỗ gần 17.000 tỉ đồng, lỗ lũy kế đến 31-12-2011 là 40.400 tỉ đồng.
Tháng 10-2011, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản truyền đạt ý kiến của Thủ tướng về việc xử lý kết quả thanh tra tài chính tại EVN. Trong đó, Thủ tướng có yêu cầu Bộ Công thương phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện các phương án giá điện và đánh giá các khoản đầu tư ra ngoài ngành của EVN, đặc biệt là việc đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm như chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm và các khoản đầu tư vào EVN Telecom. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công thương chỉ đạo EVN kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan đến những vi phạm.
Theo Tuổi Trẻ
Nhà đầu tư đổ tiền vào trái phiếu các thị trường mới nổi
Trước đây, nhà đầu tư chủ yếu hướng đầu tư vào thị trường trái phiếu các nước phát triển hoặc tài sản khác. Thị trường trái phiếu các nước mới nổi không được quan tâm do tính thanh khoản thấp và không hấp dẫn bằng thị trường nhà đất.
Nhà đầu tư đổ tiền vào trái phiếu các thị trường mới nổi
Mức tăng trưởng thấp cùng với lợi suất không đáng kể từ trái phiếu các nước công nghiệp khiến các nhà quản lý quỹ chuyển hướng tới thị trường nợ các nước mới nổi. Nhu cầu đầu tư vào trái phiếu các nước mới nổi có hệ số tín nhiệm cao như Ấn Độ, Indonesia tăng.
Tuy nhiên các nước này thường hạn chế nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trái phiếu. Tại Ấn Độ mức trần đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trái phiếu chính phủ là 15 tỷ USD, trái phiếu doanh nghiệp là 20 tỷ USD và 25 tỷ USD với công cụ trái phiếu khác.
Các quỹ đầu tư trái phiếu của HSBC cho biết có kế hoạch tăng tỷ trọng đầu từ vào thị trường nợ và tiền tệ các nước mới nổi trong năm 2012. Năm 2011, các quỹ này đã huy động được hơn 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư tổ chức luôn tìm kiếm thêm lợi suất, sự ổn định, tránh giảm giá trị tài sản do khủng hoảng nợ khu vực đồng euro.
Tính đến tháng 6/2011, các nhà đầu tư trái phiếu nắm giữ khoảng 100 nghìn tỷ trái phiếu đang lưu hành trên toàn cầu, theo số liệu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế.
Hơn 70% trái phiếu trên toàn cầu được phát hành bởi nhóm G7 bao gồm Mỹ, Anh, Nhật, Đức, Pháp, Ý và Canada. Các nền kinh tế mới nổi chính như Trung Quốc, Ấn Độ hạn chế đầu tư nước ngoài đầu tư vào trái phiếu.
Nguồn DVT.vn/Marketwatch
Nguyen Thanh Phuong Chairwoman VietCapital Securities
Nguyen Thanh Phuong, MBA
Co-founder & Chairwoman – VietCapital Securities
Co-founder & Chairwoman – VietCapital Asset Management
Co-founder & Chairwoman – VietCapital Securities
Co-founder & Chairwoman – VietCapital Asset Management
Ms. Phuong is one of the founders and the current Chairperson of VCSC. She also founded Viet Capital Fund Management and serves as its Chairperson. Ms. Phuong has many years of experience in the financial industry, having worked in asset management and in financial management positions in large corporations. She holds a Bachelor of Business
Administration in Banking and Finance from the National Economics University, Viet nam, and an MBA in Finance Management from the National University in Geneva, Switzerland.
Viet Capital Securities (VCSC) was established in 2007 and is one of the fastest growing securities company in Vietnam. VCSC is the leader in investment banking, a top 10 brokerage firm by market share, and has won the “Best Brokerage House in Vietnam” awarded by The Asset magazine in 2010. VCSC’s philosophy is firmly grounded on the belief that the only way to do business is by adopting good corporate governance and by building long lasting relationships with clients.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)